Ngô Đồng nước trong, đá xám, phận người...
SGTT.VN - Có một dòng sông không lớn, không nổi tiếng lắm, đi khắp sông cũng không tìm đâu ra bóng một cây ngô đồng mà lại mang tên Ngô Đồng.
Chỉ có tiếng mái chèo gạt nước cho thuyền lãng đãng chậm trôi qua ba động Tam Cốc mà ngắm cố cung một thuở hiển vinh của vua Đinh và vua Lê. Ảnh: tư liệu |
Nó làm cho tôi phải tìm tới vùng núi Cấm Sơn để nhìn nơi bắt nguồn dòng chảy rồi tràn sang lưu vực sông Sào Khê. Đến trước mùa thu heo may, sông Ngô Đồng vắt trên mình màu vàng của lúa miền đất Tràng An, và mùa đông thì nước trong đến nao lòng khi bóng núi đá vôi đổ xuống uy nghi và kiêu hãnh bên đền Thái Vy nhuộm vết rêu phong, cổ kính. Và để đi trên dòng sông này, hạnh phúc nhất là không có tiếng máy nổ, chỉ có tiếng mái chèo gạt nước cho thuyền lãng đãng chậm trôi qua ba động Tam Cốc mà ngắm cố cung một thuở hiển vinh của vua Đinh và vua Lê.
Sông Ngô Đồng còn giống chiếc khăn ảo thuật, với bốn mùa mang vẻ đẹp của hồn quê Việt. Nó gây ám ảnh bởi ngôi nhà lợp đá liêu xiêu bên núi, nom vừa đìu hiu vừa đẹp rất đơn sơ của một kiếp người chài lưới. Phía trong ngôi nhà, không có đồ đạc gì. Chủ nhân là Giong, 17 tuổi, chuyên bắt cá bắt cua để tồn tại mà không thấy mình khốn khổ. Chiếc giường là một cây gỗ xẻ đôi, phạt hai đầu, độ dài 2m, kê bằng hai viên đá, thế là thành chốn ngủ thiên đường. Cuối nhà xếp ba ông vua bếp. Khói đun nước đã xám lại trên vách đá, một bữa cơm đạm bạc với cá nướng. Một cách sống giản đơn nhất của thế kỷ 21. Vận trên người chỉ một chiếc quần đùi, suốt ngày Giong lặn sông và giăng lưới bắt cá, bắt ốc núi. Giong bán ốc núi cho nhà hàng cũng đủ ăn, nhưng cố kiếm thêm để mai này lên bờ.
Hỏi sao nhà không có gì ngoài hai bộ áo quần vắt trên dây phơi, Giong nói không cần thiết. Ngày ngày cậu đánh lưới trên sông Ngô Đồng, chèo thuyền vào chợ bán mớ cá đong cân gạo, mua tí mắm ngon để uống một hụm khi lặn sông – một cách sống đơn giản mà ám ảnh một phận người.
Giong lớn lên ở một cô nhi viện. Một ngày mưa, đi tắm sông cậu thấy đi bắt cá cũng hay hay và thế là Phật độ cho đi bắt cá. Việc đầu tiên là bán cá, cất tiền trong cái túi nilông rồi vỗ đất bùn khô giấu vào núi đá: ngân hàng của Giong là một ngọn núi. Kiếm đủ tiền mua một chiếc thuyền kiếm ăn trên sông – mơ ước của Giong chỉ có vậy. Hỏi có biết chữ không. Gật đầu. Em biết đọc, và biết tính đến 2 triệu đồng. Vì con thuyền em mua hồi đó hơn 1 triệu đồng. Lẽ sống đơn giản và tối thiểu. Là đủ sống.
Người ở cố đô Hoa Lư có hai dòng đạo, Thiên Chúa và đạo Phật. Giong theo đạo Phật, em chưa gặp xui xẻo từ khi sống với sông. Cách sông Ngô Đồng độ nửa tiếng chèo thuyền, lại gặp một ngôi nhà lợp lá. Nhà của một lão nông cày cấy bên núi đá vôi. Ông có mụn con trai lấy vợ và có đứa cháu hai tuổi. Rải rác dọc sông cũng có chục ngôi nhà dựng bên đường bán đủ thứ cây cảnh, ốc núi, thịt dê nướng và cơm cháy đặc sản vùng này. Món gỏi cá nhệch nổi tiếng của vùng Kim Sơn cũng có bán ở đây, nhưng muốn ăn ngon phải đi thêm 60km xuống nhà thờ đá Phát Diệm mà thưởng gỏi cá nhệch, nghe chuông nhà thờ đổ xuống hoàng hôn, uống rượu tắc kè để “rồi lên ta uống với nhau / rót đau lòng ấy vào đau lòng này” (thơ Trần Huyền Trân).
Còn muốn nghe chim hót, hãy đến chùa Bích Động. Chùa vẫn có bà cụ Khế chín mươi tuổi chuyên đi vơ lá khô đun nước với lá hoa hồng đã sao vàng hạ thổ, rồi pha nước mời người đi lễ. Cụ Khế nói rằng, nhờ ăn mày cửa Phật, cụ mới khoẻ thế này. Cụ chưa nghễnh ngãng và cũng chưa chịu ngồi yên, “Tôi còn lên tới chỗ Phật Tổ trụ trì trên núi cao, còn thắp đèn dầu dâng hương mà giác ngộ”. Hỏi cụ Khế giác ngộ gì, cụ bảo: “Cứ chầm chậm mà sống cho nó ra cái con người. Nhiều người có của nả không đem cho người cùng khổ, cứ hăng hái đặt lên tay Phật, Phật có tiêu đâu nào. Rồi họ đặt lễ xin xỏ đủ thứ. Tôi chắc Phật cũng chưa cho. Dâng dầu đèn ở chùa, nghe mãi cũng không hiểu tâm thế thời bây giờ đi về đâu…”
Dòng sông vẫn vỗ về nhân gian. Ai đó một lần bước trượt, trong phút giây cô độc, bị đánh cắp niềm tin, họ thường tìm về sông Ngô Đồng để tìm một không gian tĩnh, nơi có nước trong và đá xám... Dòng Ngô Đồng vẫn cứ chảy từ phía núi đá Cấm Sơn như truyền thêm niềm tin và sức mạnh vị đất và vị nước, nhân niềm hy vọng của mùa xuân cho khát vọng con người.
Hoàng Việt Hằng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét