Thứ Ba, 4 tháng 2, 2014

Tìm xuân trong tết

Tìm xuân trong tết

Tìm xuân trong tết


SGTT.VN - Có nhầm lẫn ở đây chăng, xuân với tết loằng ngoằng cùng hệ, tết là xuân cứ thế hoà vui thôi! Không, với những gì một đô thị lớn mang đến cho cư dân vào dịp tết, có lẽ cặp khái niệm xuân – tết này đành phải miễn cưỡng tách bạch vậy.










“Cầu khỉ giữa phố” có lẽ chỉ còn đủ háo hức du khách xa quê, trong khi thành phố vẫn chưa có đủ không gian công cộng tiện ích cho mỗi độ xuân về.



Gần tết, tại những khu nhà “được cho là cao cấp”, những địa điểm dịch vụ thương mại lớn tại trung tâm thành phố luôn lung linh. Đông người ghé đến, mua sắm thì ít mà xúm xít chụp vài ba tấm hình kỷ niệm thì nhiều. Dĩ nhiên rực rỡ ánh đèn, dĩ nhiên tuyết trắng Noel vừa qua là mai vàng xuân chấp chới. Dĩ nhiên trang trí mặt tiền cửa tiệm – nói theo kiểu dân trong nghề là show window – khá ấn tượng, đặc sắc để xuân vui, xuân đến, xuân gọi mời.


Nhưng không cần dịch chuyển quá nhiều, chỉ rẽ ngoặt vài con phố, qua sông xuống quận 4 hay sang Bình Thạnh, đã thấy ngay sắc màu tết, không khí tết – chứ chưa nói sắc xuân, dáng xuân đâu nhé – vừa có vẻ tràn ngập ở khu trung tâm đã nhạt phai mau chóng. Lỗi của dòng sông chia cắt quận 1 với quận khác chăng? Hay lỗi của quy hoạch thuở nào chẳng vạch ra nổi một quảng trường cho trung tâm cũng như các quận chung quanh, khiến đường hoa hôm nay đến hẹn lại lên cứ phải chen vai thích cánh nén người nhích từng bước một trong lòng con phố ngày càng hẹp đi vì cao ốc dày đặc?


Lâu lâu lại nghe vài câu nói rằng sao giờ này vẫn chưa thấy không khí xuân nhỉ, lại hay thấy những đánh đồng lý do suy thoái kinh tế vơ vào cùng biến đổi khí hậu và khủng bố ở tận đâu đâu nó làm mình kém vui. Thật vậy không? Chuyện nào xa xôi chứ chuyện xuân với tết thật ra rất gần, gần lắm. Kìa những xóm lao động nghèo nằm trong hẻm nhỏ chằng chịt đặc trưng đất Sài Gòn. Kìa những khu nhà trọ công nhân vùng ngoại vi đìu hiu se sắt không chỉ những đêm cuối năm. Bao năm rồi nhìn từ ngoài vào cũng thấy nhiều màu sắc lắm, toàn sắc xanh đỏ nhỏ to của quần áo mới giặt phơi trước dàn khung sắt chống trộm thay cho những dây đèn lung linh màu sắc. Hay ghé qua những khu bị bể bờ bao lênh láng để nghe văng vẳng tiếng nhạc “Xuân đã về” xen lẫn tiếng gọi nhau í ới khi khòm lưng tát nước và dọn đồ chạy lụt giữa lòng phố thị.


Với những ngôi nhà “tôn hoá từ mái tới tường” rất tạm bợ ấy, dù gia chủ đã ngót nửa thế kỷ ngụ cư, liệu sắc xuân có kịp len vào? Ở những chỗ chiều ngang khoảng 2m và chiều sâu không quá 8m chứa nhân khẩu gần nửa đội bóng đá chen chúc nhau ăn ngủ ấy, có lẽ câu thơ của Nguyễn Duy lại vang lên mỗi độ xuân về:


Gót chân ăn vẹt bậc thềm


Quanh năm tất bật đi tìm ngày xuân…


Nghĩ cũng lạ, người ta loay hoay cả năm đôi lúc cũng chỉ để tìm được chút xuân vui vào cuối năm cũ đầu năm mới. Với những ai không kịp ngước nhìn xuân về hay tết đến thì cách tiếp cận nào của quy hoạch khả dĩ tạo nên một không khí xuân cho không gian sống quanh họ? Đã thấy lác đác đây đó người dân tự sắp xếp những “đường hoa, xóm hoa, gác hoa” cho nhà cho xóm . Nhưng đó vẫn là những hình thức lồng trong hình thức, khác chăng về quy mô và độ hao tốn mà thôi.


Tết nghỉ mấy ngày, tổ chức trực, thưởng, xe cộ ra sao... có thể còn gây tranh cãi bởi những bài toán lợi ích khác nhau, bởi những giai tầng chủ yếu làm quản lý, chủ yếu rủng rỉnh chút tiền du hí đó đây. Nhưng xuân thì không phân biệt sang hèn. Văn minh của một đô thị là chuyển hoá được đúng mức tiện ích theo nhịp thời gian ấy, theo lẽ tự nhiên như thế, và mọi sắp xếp bày biện phải gắn với cộng đồng, chứ không thể gắn với mấy ông tài trợ hay mấy bà quản lý có chút tiền thì giăng mắc đèn hoa, còn thiếu kinh phí thì quay lưng tắt điện đìu hiu. Tiện ích của một đô thị không chỉ là làm được “điện đường trường trạm”, mà phải biết nâng tầm văn hoá của những thứ tầm tầm ấy. Như nghe đối thoại kiểu “gặp nhau cuối năm” của hai người bạn, kẻ làm quản lý, người là dân nhập cư sau đây:


A: Nếu anh không làm được thế, dù có yêu đến mấy tôi cũng bỏ thành phố mà đi vài ngày, rồi đổ xô về cho... kẹt xe các cửa ngõ chơi!


A: Nếu anh không khiến cho nơi này đáng sống, thì tôi dĩ nhiên cũng... phải cố mà sống thôi.

A: Nhưng khi xuân về là lúc tôi thấy mình trong kiếp cư dân nghèo đô thị chẳng lẽ sẽ mãi chịu vậy ư?

A: Thế thì tôi đi, thế thì tôi tìm xuân nơi quê xa heo hút, dù thiếu ánh đèn đô thị nhưng lại ấm áp tình quê...

B: (buột miệng) Em ra đi nơi này vẫn thế!

A: Thế thì, tôi sẽ hoà vào vòng quay cư xử của bao người nhập cư vậy: ở tạm đất của anh, lao ra đường kiếm sống, xả rác cho anh dọn và chẳng đóng góp nhiều nhặn gì cho cái nơi này vẫn thế của anh đâu!

...

Đành vậy, năm mới, cơm mới, chuyện cũ mà!


bài và ảnh: VĂN KHÚC






Ký sự: tinh hoa đất lành

Ký sự: tinh hoa đất lành

Ký sự: tinh hoa đất lành


SGTT.VN - Chúng tôi chọn lộ trình Bến Tre – Cổ Chiên – Trà Vinh để mong khám phá được phần nào gốc cội và tinh hoa ẩm thực thường nhật của cộng đồng dân cư chân chất ở hai bên cửa sông Tiền, những người đã sáng tạo nên những món ăn để bền lòng với cuộc sống nhân hậu và bộc lộ đúng mức sự hào phóng của đất trời phương Nam.










Mái dầm ủ mắm rươi ở hãng mắm của anh Cành Nông.



Con sùng đất trên dĩa ngũ vị hương


Trong đoàn chúng tôi, chưa một ai từng đi qua cung đường nối hai tỉnh Bến Tre và Trà Vinh bằng phà Cổ Chiên. Ghé qua hội Văn nghệ Bến Tre, chúng tôi được anh Hồ Trường và anh Nguyễn Nhật Nam chỉ đường, nhưng khách lạ từ Sài Gòn còn muốn biết một thứ khó kiếm hơn đường đi lối về, đó là món con sùng.


Anh Tới, một cây viết về ẩm thực của SGTT Online, nhất định cho rằng đuông dừa là món xưa rồi tám, con sùng đang là thứ hot nhất của giới sành ăn côn trùng. Việc phải chiều khách tìm ra quán bán món con sùng vào giữa buổi sáng ở thành phố Bến Tre khiến anh Hồ Trường tốn khá tiền cước điện thoại di động. Tin xa bay về như “phép lạ”, rằng ngay trên đường hướng về phía phà Cổ Chiên, đoạn qua chợ Thơm, tại quán ba số bảy, có một dĩa con sùng đang chờ, mà chỉ có đúng mỗi một dĩa.


Quán bên đường ba số bảy cũng giống như mọi quán buồn hiu trên các trục tỉnh lộ. Trong quán, bàn đã được lau, chén đũa và dĩa rau vườn đã được bày nhưng không thấy con sùng. Biết con sùng còn e lệ trong bếp nhà lá mờ tối, chúng tôi xin phép cô Thắm chủ quán vô bếp để coi “nhan sắc” con sùng. Thật ra cô Thắm có thể đưa sùng ra ngoài bàn ăn để khách coi mắt, nhưng cô biết chỉ trong gian bếp khách mới có thể chiêm ngưỡng con sùng trọn vẹn sơ trinh, còn ở ngoài sáng thì thôi rồi – đã thành món xào với củ hành và ngũ vị hương.


Khi được biết con sùng chính là một loài ấu trùng bọ rầy cánh cứng, ai cũng té ngửa. Ai từng có tuổi thơ trên đất đồng miền Nam đều có thời vác cuốc đào giồng khoai mì, luống mía... để tìm bắt đám trùn và con sùng về câu cá. Đâu ngờ, loài sùng đất có da thịt trắng hếu nhạy cá cắn câu này nay lại bén mồi thành món ngon. Trong các chủng loại côn trùng mà tổ chức Lương nông Liên hiệp quốc khuyến khích sử dụng như một nguồn thực phẩm giàu chất đạm và chất khoáng, không rõ có loài sùng này không. Nhưng chúng tôi dám cá là so với dế, bò cạp, cào cào, châu chấu... mà người Thái, người Miên mời bán đầy phố thì món sùng đất này là thượng hạng.


Nhưng con sùng đất được quán bên đường tẩm ướp đậm đà gia vị theo kiểu sợ mùi tanh và đó là điều đáng tiếc, vì khác với thịt cá, loài ấu trùng này không tanh. Có lẽ vì là một loài ấu trùng có hình tướng ớn ăn quá nên các quán ăn miền quê phải dùng gia vị để dẫn đường dụ khị con mắt và cái lưỡi thực khách.


Xứ chánh hiệu của bún nước lèo


Đường rời Bến Tre qua ngõ đất đỏ Thạnh Phú và bến đò Cẩm Sơn thật đáng nhớ. Không có cảnh miệt vườn nào lại thuần chất đất mát, cây tươi như nơi đây. Suốt hơn mười mấy cây số, phóng viên ảnh Quang và chiếc xe hơi bán tải của anh bị miệt vườn này chinh phục đến nỗi quên cả than thở, trách móc chuyện xóc dằn.


Trà Vinh! Đúng là một thành phố hiếm hoi của miền Nam còn được gió lành từ các đầm dừa nước, rẫy lác... điều hoà nhiệt độ. Nếu cần đưa liền lời tán dương thì nhiều người sẽ không ngần ngại cho rằng cả Trà Vinh là một khu du lịch sinh thái rộng lớn.


Sau nhiều cú điện thoại đánh thức người tỉnh lẻ ngủ trưa, chúng tôi cũng được một chị cộng tác viên dẫn đường bằng xe gắn máy đến một quán nổi danh để thưởng thức cho biết với người ta thế nào là món bún nước lèo Trà Vinh thứ thiệt. Nhưng hỡi ơi, trong khi mây áp thấp nhiệt đới trút mưa phũ phàng thì cái quán được người cộng tác viên giới thiệu đóng cửa tạm nghỉ.


Chúng tôi chọn quán bún nước lèo của anh Sáu Liêm để an trú trong cơn mưa và cơn đói. Theo anh Sáu Liêm thì chỉ ở Trà Vinh bún nước lèo mới chánh hiệu, còn ở Sóc Trăng và các xứ khác là bún mắm hoặc bún cá. Chúng tôi nhắc: “Nói như đinh đóng cột như vậy mà anh không sợ bị người Sóc Trăng, Bạc Liêu... rầy sao!” Anh khư khư cho rằng: “Bún nước lèo Trà Vinh nấu từ mắm bò hóc cá biển, còn các xứ khác là mắm cá đồng, hai thứ nguyên liệu chính này có mùi vị khác nhau, cho dù củ ngải bún hay củ riềng có giải hoà cũng không êm”. Có thể chuyện truy lý lịch các món ngon có họ mắm ở xứ ta là chuyện lãng xẹt, nhưng xét thấy cũng cần có chuyện bàn cãi về gốc gác để thêm phần ngon miệng mà húp các món mắm.


Bún nước lèo của quán anh Sáu Liêm đúng điệu hoài cổ. Một tô bún nước lèo chỉ gồm bún, rau và nước lèo, không thêm gì khác. Ai muốn thêm đạm thì quán bày sẵn gói lá chuối với mấy miếng thịt heo quay, vài cuốn chả giò nhân đậu xanh và huyết heo luộc. Nhà báo C.K rất hả dạ với mấy lát heo quay có lớp mỡ dày cui béo ngậy. Anh nói: “Ngày nay đâu đâu cũng là thịt heo nạc cao sản, lâu lâu mới được ăn thịt con heo xứ mình, mỡ thơm phức thì sợ gì mà không ăn cho hết trớn”. Ăn bún nước lèo hay bún mắm, bún cá đều có chung cái thích là lật dĩa rau tập tàng để tìm hiểu các chủng loại rau, lá bản địa. Với món mắm lĩnh xướng thì bản hoà âm rau, lá điền dã sẽ cất lên trọn vẹn bài ca rau thơm, lá thuốc của đất đồng phương Nam.














Mắm rươi chuẩn bị ra chai, độ tuổi mười tháng là nước đẹp nhất.



Sàng cốm dẹp ở Trà Vinh.



Rượu đế trong như nước mưa lưng trời


Chiều Trà Vinh mưa tầm tã, mưa càng nặng hột thì con đường Lò Hột cặp bên dòng sông càng mướt mượt mái chùa, nhà lồng chợ và những hẻm phố tỉnh lẻ yên bình. Ở giữa Trà Vinh trong mưa, cảm giác ngóng bạn để chia sẻ vài ngụm rượu, dăm ba câu chuyện là một nhu cầu thuần chất của người đồng bằng. Chúng tôi quay hướng xe về lò rượu Vĩnh Trường, nơi được giới thiệu vẫn còn nguyên thứ men địa phương cất ra dòng rượu thiệt ngon. Ông chủ lò rượu tên Lý, tuổi chỉ ngoài ba mươi, nhưng đam mê với các dòng rượu đế thật khó ai bì. Ông luôn miệng giới thiệu rượu trái quách, rượu chuối hột, rượu nếp than... và ông ước được đón những người sành rượu về xứ Trà Vinh cùng ông chiều chiều ngồi nhấp, chỉ cần nhấp ướt môi các dòng rượu đế thì sẽ thấm thía nguồn hương đất địa và nhơn sanh xứ ông.


Chúng tôi được ông Lý mời một thứ rượu đế trắng trong như nguồn mưa lúc còn lưng trời. Thứ rượu đế này trải qua hai lần cất và ủ trong hai năm. Nhà báo C.K vốn mê rượu và có cả một bầu tri thức về các loại rượu xứ Tây, xứ ta, thế nên nhìn cách anh trân trọng từng hớp rượu đế này là biết có những thứ rượu ngon đến mức không ai muốn uống nhiều để say, mà chỉ cần hớp vừa đủ để kéo dài cảm giác sức sống đang lên men thơm ngất ngưởng.


Nước mắm rươi một mình một cõi


Sáng hôm sau chúng tôi lại đi xuyên mưa để tìm vị nước mắm rươi và để được nghe tiếng chày giã cốm dẹp Trà Vinh.


Ở huyện Duyên Hải, thiệt đã con mắt khi nhìn lu hũ nước mắm rươi đang phơi ủ trong sân nhà anh chủ Phương mà mọi người quen gọi là anh Cành Nông. Theo lời anh Cành Nông, nước mắm rươi ở xứ Trà Vinh là đặc sản có một không hai. Nhiều người không ngờ ở Trà Vinh có con rươi, sự thật ngày xưa con rươi luôn ở các tỉnh ven biển miền Nam dù nhỏ hơn rươi Bắc, và con rươi trong Nam thịt nhiều nước hơn nên khó làm món chả. Anh nói: “Chừng như trời đất sinh con rươi ở đây chỉ để cho người mình làm nước mắm là hạp nhất”. Chúng tôi mượn anh cái dĩa và tự tay rót nước mắm ra rồi hửi, rồi chấm đầu đũa mà nếm. Nước mắm rươi màu vàng sậm, mặn mòi mà dịu ngọt đến mức tưởng có bỏ bột ngọt, còn mùi thơm thì không lẫn với thứ nước mắm nào trên đời.


Để chứng minh cho phẩm chất thứ nước mắm một mình một cõi, anh Cành Nông mời chúng tôi bữa cơm trưa với món nước mắm rươi kho quẹt, cá kèo kho, nước mắm rươi chấm thịt heo luộc và rau tập tàng. Trong một sáng mưa dầm gió lạnh dưới gầm trời phương Nam, ai mà nói nước mắm rươi kho quẹt, cá kèo kho nước mắm rươi và cơm trắng không phải là món ăn khiến dân xứ ta ham được sống hoài, để ăn đời ở kiếp với đất phương Nam thì chúng tôi sẽ cãi tới bến.














Sùng mì, món đang "hot" ở hàng quán Bến Tre.



Quân thần tá sứ trong món bún nước lèo.



Cốm dẹp Trà Vinh tinh hoa đất lành


Mưa phần nào ngớt hột khi chúng tôi đến với đồng ruộng vườn cây xanh như ngọc của xã Nhị Trường. Từ nơi đây chúng tôi cảm nhận rõ ràng, mỗi miền quê xa xôi mà yên lành là mỗi chắt chiu gìn giữ môi trường sống để hàm dưỡng thiện căn.









Khi nói về hoà điệu văn hoá, người ta thường nghĩ đến các giá trị to lớn, nhưng thử hỏi con người làm sao có thể đạt tầm cao xa nếu không trân trọng những sản vật như hạt gạo, hũ mắm, con cá, miếng thịt..



Tiếng chày giã cốm dẹp từ ngôi làng của bà con người Khmer này tuy không giống với những tiếng chày giã gạo ở miệt đất khác ở nhịp điệu, nhưng để từng hột nếp rang trong ơ đất vừa chín trở thành một hột cốm dẹp màu trắng ngà thì tiếng nổ lửa củi, tiếng đũa tre khuấy ơ đất, tiếng chày đôi giã xuống cốm, tiếng nói, tiếng cười... lúc tiếng Việt, lúc tiếng Miên của người nhà quê chất phác mới chính là giai điệu quý giá, không chỉ tạo ra một món cốm dẹp ngon bậc nhất, mà còn mở rộng cánh cửa tỉnh thức để ngăn mình đừng mù quáng, đua đòi mà phụ rẫy tinh hoa từ đất lành xứ ta.

Hãy mua một lon cốm dẹp, đập một trái dừa rám, nước dừa và cái dừa rám trộn với cốm dẹp, rồi dùng đầu ngón tay chúm từng chúm cốm đưa vô miệng nhai nhè nhẹ thì mới biết vì sao tinh hoa đất lành và công sức con người lại rộng lòng đến mức dịu dàng.


Từ thời mở cõi, đồng bào miệt ngoài theo ghe bầu mà vô, dân Minh Hương từ phương Bắc đưa họ tộc đến trú đã tạo nên sự hoà điệu văn hoá với người Khmer bản địa. Khi nói về hoà điệu văn hoá, người ta thường nghĩ đến các giá trị to lớn, nhưng thử hỏi con người làm sao có thể đạt tầm cao xa nếu không trân trọng những sản vật như hạt gạo, hũ mắm, con cá, miếng thịt... và qua cách tinh lọc các nguồn thực phẩm, những người dân nơi đây đã sáng chế và truyền đời những món ngon không chỉ trên cửa miệng mà cả trong ý thức.


bài: Trần Tiến Dũng - ảnh: Phan Quang






Hành hương về cõi bao dung

Hành hương về cõi bao dung

Cùng Nguyễn Tường Bách


Hành hương về cõi bao dung


SGTT.VN - Là một nhà khoa học, ông còn được biết đến như một nhà văn và dịch giả uyên thâm, với những tác phẩm như suối nguồn trong trẻo đánh thức vẻ đẹp tâm linh: Mùi hương trầm, Lưới trời ai dệt, Mộng đời bất tuyệt… Mỗi lần đọc tác phẩm của ông, trò chuyện với ông, là một lần như được lên đường trong chuyến hành hương từ vật lý đến triết học rồi dừng chân ở tư tưởng Phật giáo, để hiểu hơn cuộc đời.










Những mảng xanh có vẻ như ngày càng hiếm ở các khu đô thị mới của TP.HCM. Ảnh: Trần Việt Đức



Năm 2014 là năm bản lề của nửa sau thập kỷ 2010, một thập kỷ đã và đang đặt ra trước con người, cả phương Đông và phương Tây, những thách thức lớn như thế nào về môi trường, về văn hoá và những giá trị sống?


Đến nay, thập kỷ 2010 chứng kiến thay đổi nhanh chóng trong kinh tế và công nghệ thông tin. Những quốc gia, những tập đoàn kinh tế không phù hợp với các thay đổi của thời đại đều lần lượt phải tuyên bố phá sản, hay phải nhờ các quốc gia khác giải cứu. Điều đó chứng tỏ những gì không thích nghi sẽ bị đào thải, bất luận là quốc gia, cơ chế hay một tập đoàn kinh tế. Đó là điều mà hơn chục năm trước, ta ít khi chứng kiến.


Chủ nghĩa thực dụng đang lan tràn khắp nơi, không phải chỉ tại Việt Nam. Các chính quyền của mọi quốc gia chỉ quan tâm đến kinh tế và công ăn việc làm cho dân chúng là đã hết khả năng và phương tiện. Tình hình của chúng ta lại càng bức xúc hơn vì sự phân hoá giàu nghèo quá rõ rệt, nó làm người ta còn chạy theo đồng tiền nhiều hơn và bỏ quên tất cả những giá trị khác.


Chúng ta đang ở đâu trong thế giới này?


Việt Nam tuy đông dân vào thứ 13 thế giới, trước Đức và sau Philippines, nhưng tiếc thay không đứng vào vị trí xứng đáng. Tôi chỉ mong nước mình có được một thể chế thế nào đó để người dân được dân chủ trong chính trị, tự do trong kinh tế và nhân văn trong văn hoá. “Vẻ đẹp tâm linh” hiện nay là một điều xa vời trên phạm vi toàn xã hội, nó chỉ còn đọng lại rải rác trong các nhóm nhỏ hay trong gia đình.










Nguyễn Tường Bách sinh năm 1948 tại Thừa Thiên – Huế. Ông du học Đức năm 1967, tốt nghiệp kỹ sư xây dựng năm 1975, tốt nghiệp tiến sĩ kỹ thuật năm 1980. Ông là tác giả và dịch giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng đã xuất bản và tái bản nhiều lần tại Việt Nam. Ảnh: do nhân vật cung cấp



Những thành phố cũ như Hà Nội, Sài Gòn sẽ sống sót như thế nào trước xu hướng phát triển kinh tế bằng mọi giá? Kiến trúc xanh theo ông có là một giải pháp của tương lai?


Tất cả tuỳ thuộc vào sự hoạch định của các nhà lãnh đạo và phát triển đô thị. Nếu các vị đó hoạch định đúng bài bản, không bị quyền lợi riêng tư ảnh hưởng, không bị tư duy nhiệm kỳ chi phối thì ai cũng có quyền hy vọng sẽ có đất nước và các đô thị xinh đẹp. Dĩ nhiên còn vấn đề ngân sách, nhưng không nhất thiết phải giàu mới đẹp. Kiến trúc xanh hiển nhiên là đáng hướng đến, nhưng làm sao thực hiện được nếu như người ta chỉ tập trung “khai thác” đô thị, biến từng mét vuông đất thành tiền bạc nhằm kinh doanh sao cho thành tiền. Chỉ nội một đô thị ít ô nhiễm và ngập nước là đã khó thực hiện rồi, không dám mơ xa.


Người ta thường nói Sài Gòn là thành phố của những cơ hội, cởi mở và năng động… Vào Sài Gòn dưới tuổi hai mươi, ông nghĩ gì về phẩm cách của Sài Gòn nói chung và người Sài Gòn nói riêng…? Phải chăng phẩm cách lớn nhất là sự bao dung?


Sài Gòn là một thành phố vô cùng duyên dáng. Ai đi dạo trong Sài Gòn nửa khuya khi vắng xe thì thấy người ta mê Sài Gòn cũng phải. Người Paris mê Paris thế nào thì nhiều người mê Sài Gòn thế đó. Tôi thuộc loại người mê cái duyên của Sài Gòn. Ngày nay tiếc thay Sài Gòn đã quá tải và ô nhiễm, nhiều người phàn nàn. Bao dung ư? Theo tôi bao dung là tôn trọng sự khác biệt. Bao dung là để cho những ai yếu thế cũng có tiếng nói của mình, là “tự do của thiểu số”. Đúng là xã hội chúng ta cần tính cách bao dung, trong tinh thần mình sống và để cho người khác cùng sống, nói dân dã là “mình có cơm thì người khác có chút cháo”.


Một dân tộc bao dung, phải có bản lĩnh và nội lực như thế nào? Bản lĩnh ấy được hình thành ra sao sau bao nhiêu thăng trầm của thời cuộc?


Bản lĩnh giữ nước của ta thì cả thế giới đều biết. Bản lĩnh xây dựng của ta thì thua kém mọi người, đó là một sự thực không ai phủ nhận. Nguyên nhân là chúng ta quá trung thành với những điều đã được chứng minh là lỗi thời. Nội lực chúng ta có lẽ chưa mất, nhưng đã bị chôn vùi trong sự thụ động của tất cả các tầng lớp dân chúng. “Bản lĩnh” của các nhà lãnh đạo là chủ động xới lên lại nguồn lực của cả dân tộc. Nhưng “xới lên” đồng nghĩa với sự xếp đặt lại của cả nước, điều đó không dễ. Nếu được thì công ơn của họ đối với dân tộc sẽ không ai quên.


Voltaire từng nói: “Bất đồng là căn bệnh nặng nhất của nhân loại, khoan dung là phương thuốc duy nhất”. Phải chăng bao dung có thể thay thế bạo lực? Bằng cách nào?









Theo tôi bao dung là tôn trọng sự khác biệt. Bao dung là để cho những ai yếu thế cũng có tiếng nói của mình, là “tự do của thiểu số”. Đúng là xã hội chúng ta cần tính cách bao dung, trong tinh thần mình sống và để cho người khác cùng sống...



Bản thân mỗi người cũng phạm nhiều sai lầm, chính ta phải tha thứ cho chính mình. Thì trong xã hội, bao dung và biết bỏ qua lại càng là một phẩm chất hầu như bắt buộc nếu muốn có một xã hội hoà bình. Văn hoá là gốc để chúng ta có thể thực hành bao dung, văn hoá cũng là nỗ lực chung của toàn xã hội, từ lãnh đạo cho đến các cơ sở giáo dục. Ngày nay tiếc thay bạo lực tràn lan, có người không bao dung với ai cả, kể cả với người thân.

Trong ký ức của ông về xứ Huế, điều gì ông nhớ nhất về “hương vị quê nhà” qua hình ảnh những gánh hàng rong?


Những hình ảnh và âm thanh càng xa xưa, càng nằm sâu trong thời thơ ấu, càng làm tôi dễ xúc động. Đi xa mới biết yêu quê, ra nước ngoài mới biết yêu đất nước. Cho nên ta phải “đi” mới biết thế nào là “về”.


Tôi sợ rằng gánh hàng rong sẽ mất đi theo dòng phát triển của xã hội. Như xe xích lô, như chợ họp buổi sáng... Nhưng có lẽ đó là điều mà ta phải chấp nhận. Có những điều dù đẹp đến mấy cũng có lúc phải mất đi. Ở Âu Mỹ cũng có vô số ngành nghề truyền thống đã phải biến mất.


Với ông, dòng sông quê mang những kỷ niệm nào đáng nhớ nhất? Mùi hương nào của tuổi thơ mà ông nhớ nhất?


Tôi nhớ sông Hương biết bao khi thấy sông Danube tại thủ đô Budapest của Hungary. Hai dòng sông giống nhau ở chỗ sáng lên khi hoàng hôn xuống. Mùi rạ chín lúc trẻ con nhà quê thả diều là mùi hương không thể nào quên.


Điều gì làm ông đau xót nhất mỗi lần trở lại với những bến sông quê?


Ý thức môi trường của ta quá yếu. Tôi vừa trầm trồ kênh Nhiêu Lộc nay đã xanh và đẹp hơn, có cỏ xanh, có băng ghế thư giãn, có người câu cá; nhưng lại tiếc khi thấy bao nilông trôi lềnh bềnh trên nước. Nếu mỗi người chỉ chịu khó chút thôi, biết giữ gìn chút thôi thì không đến nỗi thế.


Ông đã có một bài viết rất xúc động về tiếng ve sầu, phải chăng sự tịch mịch của miền quê Bao Vinh – Huế và nền nếp giáo dục của gia đình đã hình thành nên con người Phật giáo trong ông?


Đó là một thứ âm thanh vang vọng từ quê hương, từ thời thơ ấu, từ một tâm thức rỗng lặng của trẻ con. Ai cũng có những kỷ niệm như thế. Tiếng gà trưa của Trịnh Công Sơn cũng vậy.


Sự hoà hợp và khác biệt giữa tôn giáo và khoa học đã giúp ông có được một cảm quan thế nào để lý giải về cuộc đời, về nhân tình thế thái?


Đối với tôi, khoa học là một đại lộ để đi vào tôn giáo, không có chút mâu thuẫn nào cả. Phật giáo và khoa học có nhiều cái chung. Cả hai đều áp dụng phương pháp khoa học thực nghiệm. Hiểu cái này là tiền đề đi vào cái kia. Tôi cám ơn cuộc đời đã cho tôi tiếp cận với hai cái tưởng chừng như đối nghịch đó. Nhờ sự hài hoà đó mà tôi thấy cảm thông trong mọi quan hệ, kể cả cái mà ta gọi là “nhân tình thế thái”.


Trong những cuộc hành hương về đất Phật, ông đã chiêm nghiệm ra điều gì thú vị nhất?


Các cuộc du hành đều thú vị. Các chốn hành hương đều có một năng lượng riêng, không nhất thiết là tại các thánh tích Phật giáo. Hè vừa qua chúng tôi đi Lourdes tại Pháp, một chốn hành hương rất nổi tiếng của Thiên Chúa giáo và tôi cảm nhận tâm mình rất an tịnh và cảm khái.


Viết và dịch sách có phải là một cách dấn thân của riêng ông? Tinh thần ấy có ngược với Phật giáo, để có được tịnh hạnh, tịnh tâm?


Sống trong xã hội, mỗi người đều có trách nhiệm. Đạo Phật không những chỉ có triết lý nhận thức mà còn triết lý hành động. “Hành động” tức là tuỳ điều kiện mà làm điều gì đó có lợi cho mọi người. Có lúc càng làm nhiều lại càng “tịnh hạnh tịnh tâm”, chúng không mâu thuẫn.


Người trí lọc bỏ dơ bẩn của bản thân, của đời sống như thế nào, để có thể tự chế bản thân, nhận chân cuộc sống?


Nếu biết quan sát, biết ghi nhận mọi điều đang xảy ra trong tâm và ngoài tâm thì những điều gọi là “dơ bẩn” sẽ tự tan biến. Cũng như kẻ trộm khi ta biết đến nó thì nó lảng đi. Nên tập một cái tâm quan sát khách quan, không phê phán không dính mắc những điều đang biến hiện trong tâm, đó là cánh cửa mở ra để đến với những cái mà ta gọi là “minh triết”. Nếu ta nắm được cái tức khắc đang diễn ra thì đó cũng là bước đầu của cái mà ta gọi là “thiền định”. Sau đó thì những bước kế tiếp sẽ tự diễn ra, không cần dụng công.


Kim Yến (thực hiện)






Kỳ lạ: Tổ ong cực lớn trên... cây mai

Kỳ lạ: Tổ ong cực lớn trên... cây mai

Kỳ lạ: Tổ ong cực lớn trên... cây mai


SGTT.VN - Một tổ ong có đường kính khoảng 30cm đóng trong thân cây mai khiến nhiều người thích thú và ngạc nhiên vì chuyện này xưa nay rất hiếm.


Cây mai trên được anh Hoàng chưng ngay phòng khách nhà mình trong dịp tết Giáp Ngọ (số 100 đường Tôn Đức Thắng, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu).


Anh Hoàng cho biết trong mấy ngày Tết vừa qua có nhiều người thấy thú vị nên xin chụp ảnh bên cây mai để làm lưu niệm.




















Theo Dân Việt




Mi đang chảy đi đâu?

Mi đang chảy đi đâu?

Dòng sông miền thượng


Mi đang chảy đi đâu?


SGTT.VN - K’Nhal cùng đứa con khiêng chiếc xuồng lên khi không thể bơi tiếp. Anh và cậu con không có phép mầu để ôm xuồng bay qua cái đập khổng lồ kia. Cái đập thuỷ điện đã ngăn dòng sông mẹ Dạ Dờng lại, kể từ ngày thuỷ điện Đồng Nai 3 hình thành năm năm trước. Một cái đập thôi nhưng đã chia cách thế giới tự nhiên trên một dòng sông và làm khác đi thế giới ấy…










Ở cao nguyên, một dòng chảy có lúc là sông, lúc là thác, là ghềnh, là vực.



K’Nhal bảo xưa anh cứ thế mà thả xuôi đánh cá cho đến khi “no” cá, chán chê thì nghỉ; rồi chèo ngược về hoặc cắm đại xuồng ở bến rừng – sông nào đó mà về. Nay chỉ chờ trời mưa nhiều ngày, có bão lũ, thuỷ điện xả nước, thì mới nghĩ đến việc bắt con cá con tôm dưới dòng sông mẹ. Tức là bắt cá ở đoạn sông xưa bỗng một ngày đọng nước chứ không phải nguồn chảy thiên nhiên hàng ngày từ núi rừng. Sông hết chảy thì hồ đây đó cũng không còn nước. K’Nhal tâm tư là anh nhớ sông, nhớ nước, nhớ cảm giác bắt con cá, thèm ăn con cá nước ngọt mà đi bắt, chứ nhiều người ở bon B’tung, xã Dăk Plao, huyện Dăk Glong, tỉnh Dăk Nông của anh đã mòn mỏi, không buồn đi bắt con cá nữa. Anh kể bà con bon (làng) Mạ giờ quen dần bán cái bắp, cái càphê, điều để đi mua con cá biển, cá hấp mà ăn, người ta đưa từ xứ biển Bình Thuận lên. Nghe anh nói mà lòng tôi chùng xuống.


“Kẻ” đưa tin rừng già


K’Nhal ngồi đấy, xả hơi với chút cá ít ỏi bắt được, sau khi đưa thuyền lên bờ để chờ xe công nông đến chở nó đi tìm khúc sông có nước khác. Theo Nhal, sông là mạch máu của núi rừng, của miền xứ Thượng quê anh. Trong lòng anh, sông, cuộc đời nó, vẫn quẩn quanh cao nguyên này. Cảm giác “sông không ra khỏi xứ”, bởi nó bắt đầu từ những mạch nước nhỏ nhất trên núi, trong rừng già lê thê. Cứ lê thê miết như thế cho đến khi gom đủ suối để thành sông. Trong dân gian miền Thượng ngày nào, họ không biết dòng sông của mình sẽ tới đâu, và “nói” lời tạm biệt với dòng sông là không thể. Chỉ người từng trải, hiểu biết mới biết nó chảy đi đâu đó thôi về dưới kia, chỗ thấp hơn, đến đại dương, một chốn xa xôi hư ảo.


Nhal rằng nhìn dòng nước của sông là biết quanh đó rừng già hay rừng thưa, và những loài cá gì thường sinh sống. Sông chảy từ rừng già ra, nước trong, xanh thẳm, và lạnh. Sông chảy từ rừng thưa xuống thì nước đục.


Sông chảy từ rẫy nương xuống thì nước đục hơn nữa. Dòng sông nằm trong rừng nguyên sinh khi chảy dòng nước không thấy nhiều rác, cây lá, bọt nước... Tốc độ nước chảy cũng cho biết rừng bên trên nhiều hay ít. Sông ở rừng già nước lạnh nhưng coi vậy mà hiền. Sông chảy qua núi đồi không rừng, nước rất dữ. Đếm giờ mưa có thể ước được bao giờ con nước nó đến khúc sông nào, chảy qua bến sông kia, dâng lên tới chỗ cái cây nào quen thuộc. Địa hình cao nguyên là vô vàn hình hài, tầng nấc, khúc khuỷu. Nên nước bền bỉ len theo rừng để đi, lúc thì cuồng nộ hung hãn đâm thủng núi non, va thẳng vào những bãi đá lộ thiên, đổ xuống vực thẳm. Lúc lại chảy dịu dàng, rồi cuồng lên ngay. Kể cả mùa khô, sông cũng không thể êm đềm. Sự trắc trở của địa hình bắt nó phải khùng điên, cuồng nộ. Nước chảy mà như “nhảy”. Sông biến ảo.


Sông tiến về đến đồng bằng là thứ sông xa nguồn, tách xứ, phẳng băng ra, cởi trần, như “xa lộ” cho nước, chẳng dùng dằng, quyến luyến, vòng vo nữa. Nhưng rắc rối và liêu trai mới là kỳ diệu của một thực thể mang tên “con nước miền Thượng”.


Núi non cách trở, có những địa bàn con sông, đường thuỷ, trở thành giải pháp tối ưu cho việc đi rẫy đi nương, chở bắp, mì, càphê về, và phân bón, máy tưới… Theo dòng sông, hay xuất hiện những bến thuyền độc mộc là vì thế. Dĩ nhiên trên mỗi bến thuyền ấy là làng, bon, buôn, plei với cư dân sinh trú lâu đời. Người dân bám vào những con sông, men theo dòng nước để sống, để vào rừng kiếm nấm kiếm rau, con chim con thú; đưa nông sản, củi… về trên những dòng sông đó. Người Mạ, K’ho, Êđê, M’nông, Jrai, Bahnar… cũng dựa vào những con sông đó để kiếm thực phẩm, hoặc đánh bắt cá nước ngọt về ăn, trao đổi, mang ra chợ bán. Dòng sông sinh ra bao nghề nuôi sống con người. Con người nương theo dòng sông tự nhiên mà tồn tại. Một cuộc sống chan hoà và thanh bình, nương tựa sông núi...










Khi một thuỷ điện ra đời, những con sông, dòng suối tan vỡ đời sông đời suối.



Dòng nước đời người


Khi chảy qua mỗi vùng rừng, mỗi tộc người, mỗi (làng) plei, bon, buôn, dòng sông mang lấy một cách gọi “nước” khác nhau. Nơi thì gọi sông là Đa, nơi gọi là Đăk, nơi gọi Lak, nơi gọi Ea, nơi gọi Sê, nơi lại gọi là Ya… Như một con sông Đồng Nai thôi, người phía đỉnh núi Bidoup gọi là Đa Nhim, xuống chút nữa là Labá, chút nữa thành Đa Sa, chút nữa thành Lien Khang, chút nữa là Đa Chamo, chút nữa Dạ Dờng, chút nữa Đa Dâng, chút nữa Đa M’rong, chút nữa Đa Oai, chút nữa Đa Quay, chút nữa là La Nga… Tên gọi cho sông gắn với lai lịch nguồn nước, ký ức cộng đồng. Càng quẩn quanh đại ngàn, chảy miên man là những cái Đa, Đăk, Đă, Ya, Ea ấy… hoá thần, là thần, chứ không còn là nơi nước chảy. Người ta cúng sông, bến nước là vì vậy. Dòng sông sinh ra văn hoá cho con người nơi nó đi qua. Mỗi tộc người cúng khác nhau. Chính nó, sông, lại còn phải sống đời sống của những thực thể khác: thác đổ, ghềnh đá, vực sâu, hang động, nước qua thung lũng, thảo nguyên, đồng bằng…


Mùa mưa lũ sông đồng bằng có dữ dội thì sự dữ dội cũng không thể bằng những đoạn giang ở cao nguyên. Sông đồng bằng, sự dữ dằn chỉ xuất hiện thi thoảng vào mùa mưa bão, nhưng tất cả vẫn được gây men từ thượng nguồn, hứng đựng những gì của thượng nguồn thôi. Kể cả phù sa ở miền hạ lưu, cũng chỉ là sản phẩm tăng thêm của hành trình đào khoét núi non, gặm đất, vận chuyển của nước sông sục sôi nơi miền Thượng. Vì vậy mà sông trong lòng người sơn nguyên nó huyền bí, sâu kín vô tận so với người đồng bằng. Có những đoạn sông dài hàng chục cây số chảy êm ái, là đất sống, “quê hương” cho những con thuyền độc mộc đặc trưng của cư dân sơn cước. Thuyền độc mộc, là nguyên cây gỗ lẩy ra từ đại ngàn, đục rỗng, để rồi cùng người lang thang trên sông thượng ngàn. Sông rừng cạn thì thuyền độc mộc cũng biến mất nói chi đến tượng gỗ nhà mồ, nhà dài.


Chả thấy con thác nào ở những dòng sông đồng bằng, cũng như chả thấy thuỷ điện nào xây trên những mặt sông phẳng như lụa ấy. Ở miền cao nguyên, trong một dòng chảy thôi, nhưng lúc dòng nước ấy là sông, lúc là thác, là ghềnh, là vực. Có những đoạn sông thành thác đẹp ngất trời như Đray Sap, Đambri, Yaly, Pongour, Bobla… Không thể đếm hết thác trên sông miền Thượng, vì đó như sự biến tấu của sông ngòi. Có những đoạn sông trải ra chuỗi thác một lúc 6, 7, 10, 15… tầng nước. Những mảnh lụa trắng tung ra giữa màu xanh thiên nhiên và hùng vĩ trong âm thanh hoang dã. Đấy không là vẻ đẹp quê hương, cảnh thanh bình, hồn vía xứ sở thì là gì.


Và cũng chính địa hình trắc trở, biến chuyển liên tục, dốc đó khiến sông suối cao nguyên trở thành những dòng sông năng lượng. Ở đó, khá nhiều thắng cảnh nằm trong rừng mà vẫn nổi tiếng, được Nhà nước xếp hạng thắng cảnh quốc gia, như Pongour, Trinh Nữ, Đăk R’tih, Đray Nu, Đray Sap, Đambri... Không để ý đến việc ai đó xếp hạng cho những cảnh sắc của quê xứ, người cao nguyên chỉ biết đó là “môi trường sống”, là những thứ máu thịt. Họ “đọc” suối, sông như ta thuộc “số nhà” ở phố. Đến khe đá còn đặt tên. Sông suối còn là không gian sinh hoạt của người. Không phải bến sông là nơi hò hẹn đâu, mà là cuộc đời, nơi lấy nước uống, nước tưới, tắm giặt, giỡn đùa. Chứa chan ký ức. Cuộc đời con người không thể thiếu sông. Nên khi một đoạn sông nào đó biến mất, là mất từ bến nước đến con người, tiêu tất cả những giá trị tồn sinh ôm lấy sông.


Tan vỡ


Người M’nông có câu: “Tu đak manh mih”, nghĩa rằng sông chảy nhờ nguồn nước, suối sông là thứ quý báu nhất trên đời. Họ mang ơn sông suối ấy với một hạnh phúc chân thật và giản dị: “Brô tâm đak nsit ko” (xuống sông là phải mang cá về).


Ngày sông Sê San ở Kon Tum và Gia Lai được chặn lại để làm thuỷ điện Ia Ly, để ý tôi thấy người Bahnar, Jrai, Rơ Ngao thẫn thờ. Dù thẫn thờ, nhưng họ vẫn vỗ tay. Chắc họ biết hy sinh khúc ruột, dòng sông, để vì đất nước, cần điện cho phát triển. Ngày thuỷ điện Đồng Nai 3 chặn dòng sông Đồng Nai, tôi thấy người Mạ của K’Nhal ở Dăk Glong của Dăk Nông và người K’ho ở Đinh Trang Hoà (Di Linh, Lâm Đồng) ngơ ngác. Dòng sông Dạ Dờng bỗng cái đùng biến mất, mà với con người ở tâm thế chân thật hoang sơ tiếc xót là phản xạ rất thiên nhiên. Con sông cùng với núi rừng bao quanh thành hồ mênh mông, mất đường đi, lối về, ruộng vườn lẫn quê quán. Nhưng con hồ tích nước nằm trên núi rừng quê xứ từ đấy đã thuộc công ty thuỷ điện kia chứ không còn của tạo hoá, của chung cộng đồng như bao ngàn năm nay nữa. Ngày thuỷ điện Đăk R’tih ở ngoại ô Gia Nghĩa (Dăk Nông) chặn dòng sông Đăk R’tih, tôi thấy người M’nông R’lăm lặng thinh rời xa nó. Ngày thuỷ điện Plei Krông ngăn sông Pôko (Kon Tum), người Xê Đăng quanh đấy vẫn đi rẫy trồng mì. Ngày thuỷ điện Buôn Tua Sar chặn dòng sông Krông Nô, dải đất mênh mông với sự thống trị của cây bắp khi mùa mưa về mà tôi từng dạo bước trên đó và gọi là “Thảo nguyên của người nghèo”, chợt nhận ra những làng M’nông Gar lâu đời đó đã đi đâu mất biệt. Ngày thuỷ điện Sêrêpôk 3 và 4 chặn sông Sêrêpôk, người Êđê, Lào, M’nông ở quanh những cánh rừng khộp Cư Jút và Buôn Đôn vẫn đi trồng càphê, và cuối buổi chiều ra tắm trên sông Sêrêpôk lần cuối. Ngày thuỷ điện Đachamo khởi công, dân buôn Đa Nghịt ở rừng Lạc Dương bồng bế con đi xem cờ phướn giăng đầy… Người sơn cước hồn hậu, trong sáng, ngơ ngác, hy sinh, chấp nhận. Và có thể, góc nào đó trong lòng, họ cũng mở ra những hy vọng đổi thay, sang giàu cho chính họ, vào một ngày nào đó. Mà hình như nếu không hy sinh họ cũng không có lựa chọn nào khác. Ngày thuỷ điện Ia Ly khởi công công trình trên lưu vực sông Sê San ở phía Gia Lai, thì nơi hạ lưu cách đấy chục cây số theo đường chim bay, tôi nhớ nhà khảo cổ học Nguyễn Khắc Sử hối hả đêm ngày huy động khai quật di chỉ của người tiền sử ở Lung Leng cho kịp trước khi nó chìm trong nước, bởi con hồ khổng lồ nuốt hết núi rừng để tích nước cho thuỷ điện. Những gì đào dưới Lung Leng, giáo sư Sử khẳng định Tây Nguyên là một vùng đất cổ xưa, thời tiền sử đã xuất hiện những cộng đồng người. Nay giáo sư Sử có lên Kon Tum, nhìn xuống hồ Ia Ly thì báu vật Lung Leng kia trở thành một cái gì đó cứ như không có thật, cho dù di vật có còn chất đầy trong bảo tàng Kon Tum.


Giờ đi qua sông núi miền Thượng, tôi nhận ra những biến thiên, xáo trộn, đổi thay từ trật tự của những con sông, ngọn núi, cho đến tâm hồn người. Khi một thuỷ điện ra đời nó xáo tất cả lên, thay, đổi, biến, động. Những con sông, dòng suối tan vỡ đời sông đời suối, nương rẫy trở thành đất thuộc lưu vực của hồ thuỷ điện, và nhất là những làng người phải di chuyển đi nơi khác. Sông, động mạch của cơ thể quê xứ, vào một ngày bỗng thở hổn hển, đứt đoạn, biệt xứ. Vĩnh biệt những “bến nước”. Vĩnh biệt những con thuyền xuôi ngược dòng sông.


Nhiều năm nay, những bộ phim tư liệu hay và gây ấn tượng lâu bền nhất trên hệ thống truyền hình nước nhà là những bộ phim làm về những dòng sông. Phim tài liệu mà nhà đài vẫn “ăn” quảng cáo no nê, vừa chiếu phim vừa độn Omo, dầu gội đầu, nước rửa chén, kem đánh răng, bia bọt... Không biết có phải do sông kể quá thật về cuộc đời của nó cùng những gì đôi bờ nó chảy qua, gồ ghề nhất là thân phận con người. Và suốt năm năm qua, chục kỳ họp Quốc hội, ở ngoài thủ đô, không kỳ nào chuyện sông miền Thượng và thuỷ điện ở núi rừng xa xôi không được đưa ra nghị trường.


Chưa bao giờ người ta nói về sông nhiều đến vậy, ở đất nước này.









Cuộc đời con người không thể thiếu sông. Nên khi một đoạn sông nào đó biến mất, là mất từ bến nước đến con người, tiêu tất cả những giá trị tồn sinh ôm lấy sông.



Gần 300 dự án thuỷ điện lớn nhỏ đã và sẽ hình thành, thì quê xứ nào còn, rừng núi nào bình yên, sông nào còn hình hài. Theo một người chuyên làm thuỷ điện nói với tôi, thiên hạ ùn ùn đầu tư vào thuỷ điện vì điện là thứ không bao giờ sợ ế, và sở hữu những vùng sơn thuỷ mênh mông khi tạo ra hồ thuỷ điện là thứ tài sản vô giá, có nhiều cách để sinh lợi từ nó, không thể mua. Có những con sông bị đoạn ra làm 14 lần. 14 lần đau trên một cơ thể tự nhiên. Khi sông không còn chảy thuận dòng thì nó chỉ là những đoạn núi non tụ nước, như những ao tù mà K’Nhal đi bắt cá, chứ sao là “sông” nữa được. Không còn chảy một dòng thì thuỷ sinh, thuỷ lâm… ở nơi từng là sông ấy phá vỡ cấu trúc hết rồi. Sông ngòi không còn là sông ngòi. Và mỗi thuỷ điện ra đời từ 2.000 – 12.000 người phải tách khỏi cội quê, di dời. Có lần, ông Huỳnh Lê Trung, chuyên gia thuỷ điện hàng đầu với 30 năm trong nghề nói với tôi rằng, chính ông cũng “xót” với cách phát triển thuỷ điện ở Việt Nam: không hề có quy hoạch tổng thể môi trường và văn hoá chiến lược cho cả con sông mà chỉ quy hoạch cho từng thuỷ điện; còn đánh giá tác động môi trường lại do chủ đầu tư thuê tư vấn riêng thực hiện. Ông cũng lạ lẫm vì nguyên tắc để những dòng sông không “chết”, đứt gãy, thế giới người ta buộc làm thuỷ điện bao giờ cũng đặt nhà máy phát điện ở hai đầu, để đổ nước xuống trở lại hai đầu sông. Nhưng ở Việt Nam thì tất cả đổ xuống một đầu, cứ trên đổ xuống thấp, vì tiết kiệm chi phí đầu tư. Doanh nghiệp lợi, chỉ cộng đồng thì chồng chất đau, thiệt.

Tôi biết từ dạo đó, năm 2001, khi làn sóng thuỷ điện quét qua thì sự đúng nghĩa của con sông đã biệt xứ. Không còn có thể cho một con thuyền xuôi dòng được nữa, như K’Nhal bất lực nhìn bậc thang thuỷ điện trên dòng sông quê. Câu cửa miệng của dân gian: “Ai về nhắn với bạn nguồn/ Mít non gửi xuống cá chuồn gửi lên” theo đường sông muôn đời qua, nay coi như chấm dứt. Nếu có gửi, hãy gửi xe đò, cô bác miền ngược, miền xuôi nhé. Rất nhanh, tiện, mít khỏi héo mà cá khỏi ươn. Chỉ có điều… nhớ sông đứt ruột.


Những dòng sông lần lượt chết. Chết thật, chứ không phải lâm sàng. Và chết vì thuỷ điện chứ không phải vì nước thải công nghiệp như sông dưới xuôi. Vốn ăn đời ở kiếp với sông, bỗng một ngày mất sông, con người di dời đến nơi khác sinh sống. Người sơn nguyên thuần khiết, nhạy cảm, dính chặt với con suối, dòng sông; thích nghi với núi lạ, đất khác nào dễ, sự thích nghi phải tính bằng đời người, thế hệ. Con người sống nặng tình với nơi ở, không muốn xa cảnh vật quen, thì cần nó như dinh dưỡng. Gọi đúng tên, đó là dinh dưỡng tinh thần. Không có quá khứ thì tựa vào cái gì.


Gần đây, cứ ít tuần trên VTV lại xuất hiện một phóng sự kể những làng người bị di dời vì thuỷ điện không chịu ở nơi được bố trí định cư mà quay về quê cũ dựng chòi ở “chui” (vì đất đã giao cho dự án), mở lại rẫy vườn ở mảnh đất con con còn sót, nước ngập không tới. Bà con không ý kiến gì cả, cũng chẳng đòi hỏi, chỉ thấy họ lặng lẽ quay về như thế. Là kẻ ta bà ham chơi, thế mà lần nào xem chuyện không mới đó vẫn quặn lòng.


Như mọi chốn xứ, con sông là vật công bằng cho tất cả cư dân, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, vị trí xã hội, trong cái cuộc tình “con người và dòng sông” chảy qua nơi sinh sống. Tây Nguyên hy sinh cả những điều sâu kín, thiêng liêng nhất của kiếp con người. Như bao người bản địa tôi đã gặp trên hành trình qua nhiều con sông trên Tây Nguyên, K’Nhal tâm sự bây giờ anh không còn đoán định được khi nào nước sẽ dâng cao dù ở những đoạn sông thân thuộc, và anh không còn hiểu được sông nữa, vì dòng nước đã không còn là sản phẩm của tự nhiên. Con người đã tác động, thay đổi toàn bộ cấu trúc tự nhiên của dòng sông. Người M’nông, một sắc dân lâu đời ở Tây Nguyên có câu: “Đuk he ri đa bon tâm đak” – dịch ra tiếng phổ thông là: “Lỗi của con người đừng quăng xuống dòng sông”. Người Kinh một thời cũng có bài hát nổi tiếng Sông Đakrông mùa xuân về, giai điệu thật hùng tráng và huyền ảo về dòng sông miền Thượng: “Tôi hát cho dòng sông Đakrông luôn chảy xiết/ Tôi hát cho nhà rông đêm ngày luôn đỏ lửa; cho tiếng đàn t’rưng vang đầy dòng suối/ Đakrông ơi, dòng sông xanh thẳm/ Tây Nguyên ơi…” Sông chảy về tim tha nhân. Nhưng thiên nhiên đã tan vỡ cả rồi, hào khí sông kia mới đó cũng đã như cơn lũ quét qua.


Làm sao đo được năng lượng của một dòng sông trong lòng người.


bài và ảnh: nguyễn hàng tình






DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN

Dịch Vụ