Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Kỳ 2: Dùng mẹo để cướp công

Kỳ 2: Dùng mẹo để cướp công

Công trạng trong khoa học


Kỳ 2: Dùng mẹo để cướp công



SGTT.VN - Đứng tên tác giả của một bài báo khoa học là hình thức hiển nhiên nhất trong việc tạo uy tín và chịu trách nhiệm khoa học. Nhưng trong thực tế, ai có quyền hay xứng đáng đứng tên tác giả là một vấn đề tế nhị, thường gây tranh cãi, bất hoà trong đồng nghiệp, thậm chí dẫn đến kiện cáo. Ở nước ta, vấn đề này có vẻ trầm trọng hơn. Rất nhiều nghiên cứu sinh phàn nàn rằng trong khi họ phải cật lực làm nghiên cứu, các thầy cô lại giành quyền đứng tên!










“Một nền khoa học lành mạnh phải được xây dựng trên nền tảng của sự minh bạch và liêm chính”. Ảnh: Tấn Thông



Mẹo “và cộng sự”


Khoảng 50% các bài báo khoa học, nhất là trong ngành y, có năm tác giả trở lên. Vấn đề đặt ra là cách sắp xếp thứ tự trong danh sách tác giả của bài báo phải phản ánh được công trạng của thành viên tham gia trong công trình nghiên cứu. Theo cách hiểu thông thường của người ngoài khoa học, người có đóng góp nhiều nhất hay quan trọng nhất phải là tác giả số một, người có công quan trọng kế tiếp là tác giả số hai, và tác giả sau cùng có đóng góp ít nhất. Nhưng trong khoa học có những quy ước bất thành văn mà người ngoài khó hiểu được, như trong ngành y, tác giả đầu (số một) thường là nghiên cứu sinh hay những người có đóng góp nhiều nhất cho bài báo và công trình nghiên cứu, tác giả số hai thường là thầy cô hay người hướng dẫn của nghiên cứu sinh, và tác giả sau cùng có thể là người đứng đầu của nhóm nghiên cứu (tức “sếp”). Vị trí của các tác giả còn lại là kết quả của thoả thuận nội bộ, hay quyết định của tác giả sau cùng. Dĩ nhiên, không phải bài báo nào cũng theo quy ước đó, nhưng xu hướng chung là thế. Chỉ người trong cuộc mới biết ai đóng góp nhiều ít ra sao.


Mấy năm gần đây, các tập san khoa học có quy định mà theo đó các tác giả phải “khai báo” họ đã đóng vai trò gì trong công trình nghiên cứu. Chẳng hạn như trong công trình nghiên cứu về ô nhiễm arsenic công bố trên tập san Nature, có phần viết về đóng góp của từng tác giả, và chúng ta biết rằng các tác giả Việt Nam chủ yếu là bố trí thử nghiệm và thu thập dữ liệu, các tác giả ngoại quốc chỉ có công trong việc đề xuất ý tưởng, phân tích dữ liệu và soạn thảo bài báo. Theo tôi cách làm này cần được triển khai ở các tập san khoa học trong nước, vì tính minh bạch và qua đó cho phép người đọc tự đánh giá đóng góp của nhà khoa học.


Ở Việt Nam, có lẽ do hoàn cảnh đặc thù và áp lực đề bạt nên người ta còn có những mẹo rất lạ lùng, như mẹo lợi dụng cụm từ “và cộng sự”. Trong một số bài báo trên các tập san khoa học nội địa, có những bài mà dòng tác giả được ghi theo công thức “Nguyễn Văn A, và cộng sự”. Người đọc không biết “cộng sự” là ai, làm việc ở đâu, có đóng góp gì. Nếu quả thật là “cộng sự” thì họ nên được ghi tên trong phần cảm tạ, chứ không phải đứng tên tác giả. Ghi một cách lấp lửng “và cộng sự” như thế mới có lợi trong việc tính điểm để nâng cao khả năng được phong hàm giáo sư, phó giáo sư! Nếu bài báo có mười tác giả thì theo quy định, mỗi tác giả được 1/10 điểm, nhưng khi ghi “Nguyễn Văn A, và cộng sự” thì hội đồng chỉ tính hai tác giả, và ông A được 50% điểm.


Mẹo này hài hước đến độ khó tin, nhưng vẫn được áp dụng trong thế giới học thuật ở Việt Nam!


Cướp công có hệ thống!


Cơ cấu quyền lực và quy định bất hợp lý trong các trung tâm khoa học có khi dẫn đến tình trạng cướp công trong khoa học. Năm 1943, Albert Schatz là một nghiên cứu sinh trẻ tuổi với sứ mệnh tìm cho được thuốc điều trị bệnh lao. Sau vài năm làm việc cật lực, Schatz khám phá thuốc kháng sinh streptomycin và là tác giả một bài báo khoa học về khám phá này. Sếp và cũng là người hướng dẫn luận án của Schatz là Selman Waksman, bắt đầu giành công trạng về mình, bằng cách làm một cuộc vận động trong giới khoa học rằng ông là người khám phá streptomycin và không đề cập gì đến người nghiên cứu sinh của mình! Cậu học trò Schatz hoàn toàn không hay biết gì, vì trong thực tế, cả Schatz và Waksman cùng ký tên trong bằng sáng chế (patent) streptomycin. Nhưng sau vài năm, Schatz mới biết Waksman đã bí mật ký một hợp đồng và bán bản quyền sáng chế (với một số tiền lớn) cho một công ty dược lớn, và trong hợp đồng này không có tên Schatz! Schatz kiện Waksman ra toà, và toà án phán quyết công ty dược phải trả tiền sáng chế cho Schatz. Tuy nhiên, với vị thế của mình, vận động của Waksman đã thành công mỹ mãn: ông ta được trao giải thưởng Nobel vào năm 1952 vì “có công khám phá streptomycin”. Công trạng của Schatz chỉ mới được tái phát hiện khi giới sử học xem lại quá trình khám phá thuốc kháng sinh quan trọng này.


Đây đó ở Việt Nam cũng xảy ra tình trạng các sếp tự tiện ghi tên họ là tác giả đầu của bài báo khoa học dù công trình do nghiên cứu sinh làm. Nếu các vị này thực sự có cống hiến quan trọng về ý tưởng, thu thập dữ kiện, phân tích, diễn giải và soạn thảo bài báo, thì cũng không có gì sai. Nhưng có nhiều trường hợp, các sếp chẳng có cống hiến gì đáng kể ngoài việc thảo luận đôi ba lần về nghiên cứu và đọc qua bản thảo bài báo, tệ hại hơn nữa là có khi nghiên cứu sinh chỉ đứng tên trong phần cảm tạ!


Cướp công có khi xảy ra một cách có hệ thống. Có những trường hợp nghiên cứu sinh và một người hướng dẫn hoàn thiện đề cương nghiên cứu, nhưng khi trình ra hội đồng khoa học, người hướng dẫn bị loại, thay vào đó người của trường đại học địa phương làm người hướng dẫn nghiên cứu! Dĩ nhiên người được chỉ định thay thế chẳng dính dáng gì đến đề tài, chẳng đóng góp chữ nào trong đề cương (chứ chưa nói đến ý tưởng). Việc họ sẵn sàng đứng tên hướng dẫn mà chẳng có dính dáng gì đến đề tài nghiên cứu quả là ngoài sự tưởng tượng của một người có nhân cách bình thường. Điều đáng buồn là dù “tập quán” cướp công và các sếp đứng tên tác giả trong bài báo của các nhà nghiên cứu dưới quyền rất phổ biến, nhiều nạn nhân (phần lớn là nghiên cứu sinh) không dám phàn nàn, vì sợ bị trù dập. Cái lực đằng sau hiện tượng “cướp công” trên là tình trạng bất bình đẳng trong quyền lực khoa học. Những câu chuyện về bóc lột tri thức phát sinh ở bất cứ nơi nào mà các sếp và giáo sư giữ vai trò mang tính quyết định tương lai của nghiên cứu sinh hay nhà khoa học dưới cấp.


Phải làm gì để tránh tình trạng nhập nhằng trong vấn đề quyết định ai là tác giả và vị trí của tác giả trong bài báo? Theo kinh nghiệm cá nhân, xin đề xuất: trường đại học và trung tâm nghiên cứu phải phát triển một chính sách cụ thể về đóng góp trong nghiên cứu, và chỉ rõ các điều kiện cần thiết để các nhà nghiên cứu có thể xác định vị trí của tác giả trong bài báo; hoạch định tác giả và vị trí tác giả trước khi tiến hành nghiên cứu, nhất là trong giai đoạn thảo luận và thiết kế nghiên cứu; và việc hoạch định này phải dựa theo các tiêu chuẩn của ICMJE, tất cả các tác giả phải đồng ý trước khi tiến hành nghiên cứu.


Chữ “author” (tác giả) trong tiếng Anh có nguồn gốc Latin là “auctor” – nghĩa nguyên thuỷ là người có uy tín hay người có thẩm quyền. Đứng tên tác giả một bài báo khoa học, hiểu theo nghĩa này, đồng nghĩa với tạo cho mình một uy tín và thẩm quyền, và quan trọng hơn hết là phải chịu trách nhiệm trước công chúng về các phát biểu trong bài báo. Đứng tên tác giả mà không đáp ứng tiêu chuẩn và tráo đổi vị trí tác giả đều là những hình thức vi phạm đạo đức khoa học. Một nền khoa học lành mạnh cần phải được xây dựng trên nền tảng của sự minh bạch và liêm chính, chứ không thể dung dưỡng những tác giả ma, tác giả danh dự, và những kẻ cướp công trong khoa học.


Nguyễn Văn Tuấn






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN

Dịch Vụ